Các chu kỳ dài hạn - cơ bản về chu kỳ và chu kỳ Kondratieff

Thảo luận trong 'Lớp học CMT - Chartered Market Technician' bắt đầu bởi Bảo Khánh, 25/12/19.

Lượt xem : 3,857

  1. Bảo Khánh

    Bảo Khánh Chứng sỹ

    Tham gia ngày:
    23/10/18
    Bài viết:
    890
    Đã được thích:
    1,458
    cac-chu-ky-dai-han-co-ban-ve-chu-ky-va-chu-ky-kondratieff-kakata.jpg

    Trong phân tích kỹ thuật, thời gian được sử dụng và tích hợp với giá - thanh khoản - độ rộng thị trường (breadth) - ba chiều tâm lý để xác định một xu hướng thị trường. Thời gian có thể được đánh giá một cách độc lập thông qua phân tích chu kỳ.


    NGUYÊN TẮC KỸ THUẬT TRỌNG YẾU: Thời gian quan tâm đến sự điều chỉnh (adjustment), bởi vì xu hướng diễn ra càng dài thì sự cần thiết để giá di chuyển theo chiều ngược lại càng lớn, và dĩ nhiên phải điều chỉnh lại cho phù hợp.

    Thảo luận về tầm quan trọng của thời gian đã giới hạn một số quan điểm về ý nghĩa của xu hướng, phụ thuộc vào độ dài của thời gian cần để hoàn tất một giai đoạn tích lũy hay phân phối. Chu kỳ càng dài, thì độ lớn và thời lượng của chu kỳ tiếp theo càng lớn.

    Việc loại bỏ yếu tố đầu cơ để làm cho xu hướng bền vững đòi hỏi phải có một đợt điều chỉnh lớn một cách tương xứng với xu hướng. Giống như một thời gian tích lũy lớn để cung cấp nền giá vững chắc cho thị trường lên cao hơn. Trong giai đoạn 8 năm từ 1921 đến 1929, thị trường tăng trưởng tốt nhưng đã bị gián đoạn bởi những đợt điều chỉnh, nhưng sau đó là sự tăng trưởng quá mạnh dẫn đến sự tự tin thái quá của nhà đầu tư và lực đầu cơ bắt đầu tăng mạnh, và dĩ nhiên, xu hướng đảo chiều giết chết mọi thứ.

    Tương tự như vậy, đỉnh thị trường chứng khoán năm 1966 hình thành sau 24 năm giá tăng lên sau một thời gian dài tích lũy kéo dài. Khi được điều chỉnh theo lạm phát, giá cổ phiếu lên đến đỉnh điểm vào năm 1965, sau đó trải qua một thị trường giá giảm cực kỳ nghiêm trọng, tương đương với với tình cảnh 1929 - 1932.

    Một ví dụ khác đến từ sự tăng giá mạnh ở thị trường vàng, bắt đầu vào năm 1968 ở mức 32 đô la và tăng lên 850 đô la vào tháng 1 năm 1980. Sự sụt giảm giá này không nghiêm trọng như vụ sụp đổ năm 1929, nhưng 20 năm tiếp theo giá lại đi ngang rất khó chịu, chỉ quanh quẩn ở mức thấp hơn đỉnh cũ một nửa giá trị. Khi quá trình thanh lọc đã được hoàn thành, giá đã tự do tăng cao hơn gấp đôi so với đỉnh 1980.

    Nhà đầu tư đã quen với việc tăng giá trong một thị trường tăng giá, với mỗi phản ứng điều chỉnh được xem là tạm thời. Khi xu hướng cuối cùng đã đảo ngược và con sóng giảm của thị trường gấu đầu tiên diễn ra, phần lớn họ vẫn cứ tin chắc rằng đây cũng là một phản ứng tạm thời và xu hướng tăng tiếp tục nhanh thôi. Phản ứng ban đầu luôn là sự hoài nghi, như kiểu "nó sẽ quay đầu tăng nhanh thôi" hoặc "nó vẫn là một công ty tốt, lo gì!" hoặc "Tôi đầu tư dài hạn, mấy cái cú giảm này nhằm nhò gì!".

    Khi giá bắt đầu xuống thấp hơn, tâm lý bi quan bắt đầu xuất hiện vì đại đa số nhà đầu tư lúc này đã từ bỏ kỳ vọng về thị trường tăng giá. Tâm lý theo kiểu quả lắc đồng hồ này cuối cùng đã nghiêng về bên giảm, và họ trở nên tiêu cực hơn.

    Khi giá hoạt động thấp hơn trong một thị trường gấu, việc điều chỉnh có hình thức kém lạc quan hơn vì phần lớn các nhà đầu tư đã từ bỏ kỳ vọng của họ về một thị trường đang tăng và tìm kiếm chúng để đi ngang trong một thời gian. Con lắc tâm lý cuối cùng cũng dao động hoàn toàn sang phía bên kia (giảm giá), khi các nhà đầu tư chứng kiến giá giảm hơn nữa và trở nên quá bi quan. Tại thời điểm này, thời gian đủ và hành động giảm giá đã trôi qua để hoàn tất quá trình điều chỉnh, và thị trường đang được đề cập là ở một vị trí để bắt đầu một chu kỳ tăng mới.

    NGUYÊN TẮC KỸ THUẬT TRỌNG YẾU: quan điểm về một phản ứng điều chỉnh tương xứng với con sóng trước đó được gọi là nguyên tắc tỷ lệ.

    MỘT VÀI NGUYÊN LÝ CƠ BẢN VỀ CHU KỲ

    Đo thời gian như một biến độc lập là một quá trình phức tạp, vì giá di chuyển theo biến động lặp đi lặp lại được gọi là chu kỳ. Chu kỳ có thể hoạt động trong khoảng thời gian từ vài ngày đến nhiều thập kỷ. Tại bất kỳ thời điểm nào, một số chu kỳ đang hoạt động đồng thời và do chúng tác dụng các lực khác nhau vào các thời điểm khác nhau, nên sự tương tác của các mối quan hệ thay đổi của chúng thường có tác dụng làm biến dạng thời gian của một chu kỳ cụ thể.

    Một chu kỳ chiếm ưu thế, lặp đi lặp lại thường xuyên và thường đúng là chu kỳ 4 năm, trong đó có một chiều dài danh nghĩa hoặc trung bình giữa các đáy là 41 tháng. Do một số chu kỳ khác đang hoạt động cùng một lúc nhưng với những ảnh hưởng khác nhau, độ dài của giống 4 năm có thể thay đổi theo cách khác nhau trong 6 tháng hoặc lâu hơn.

    Các chu kỳ được hiển thị trên biểu đồ dưới dạng sóng hình sin

    cac-chu-ky-dai-han-co-ban-ve-chu-ky-va-chu-ky-kondratieff-kakata-1.png

    Các đường cong này thường dựa trên tốc độ thay đổi (Rate Of Change) hoặc tính toán độ lệch xu hướng (trend-deviation), sau đó được làm mịn để loại trừ các biến động sai lệch. Vì hiếm khi hai chu kỳ có độ dài giống hệt nhau, nên chúng ta chỉ tính trung bình hoặc danh nghĩa về mặt thời gian mà thôi Khoảng thời gian lý thuyết này được sử dụng làm cơ sở để dự báo.

    cac-chu-ky-dai-han-co-ban-ve-chu-ky-va-chu-ky-kondratieff-kakata-2.png

    Trong hình trên đây, một chu trình lý tưởng (chu kỳ danh nghĩa) được biểu thị bằng đường đứt nét và chu kỳ thực tế được biểu thị bằng đường nét liền. Các mũi tên chỉ ra các đỉnh và đáy của chu kỳ lý tưởng: Trong thực tế, xu hướng giá hiếm khi đảo chiều chính xác tại các điểm lý thuyết của chu kỳ lý tưởng, đặc biệt là tại các đỉnh, nơi thường có thời gian dài hơn. Tuy nhiên, các điểm lý thuyết cung cấp những gợi ý hữu ích.

    Ba nguyên tắc quan trọng khác liên quan đến phân tích chu kỳ bên cạnh những nguyên tắc về tỷ lệ và danh nghĩa. Đầu tiên là nguyên tắc phổ biến (principle of commonality), trong đó nêu rõ tính chu kỳ của thời gian tương tự tồn tại trong hành động giá của tất cả các cổ phiếu, chỉ số và thị trường.

    Điều này có nghĩa là chu kỳ 4 năm không chỉ tồn tại đối với thị trường chứng khoán, trái phiếu và hàng hóa của Hoa Kỳ, mà còn cho từng cổ phiếu riêng lẻ và cho cả thị trường quốc tế.

    Ví dụ, nếu hai cổ phiếu thực phẩm đang trải qua sự bứt phá (breakout), xu hướng đối với cổ phiếu thực phẩm có thể sẽ không còn là vấn đề nữa, nếu 10 cổ phiếu cũng đang trải qua các đợt bứt phá tương tự. Câu ngạn ngữ cổ "sức mạnh của số đông" chắc chắn ứng dụng trong tình huống này.

    Nói cách khác, tất cả các cổ phiếu, chỉ số và thị trường đều trải qua một chu kỳ tương tự, nhưng thời gian của cả đỉnh và đáy của chúng khác nhau, và quy mô biến động giá của chúng cũng vậy. Ví dụ, các cổ phiếu nhạy cảm với lãi suất và theo chu kỳ (ngành cơ bản: thép chẳng hạn) trải qua chu kỳ tương tự nhau, nhưng vì các cổ phiếu nhạy cảm với lãi suất như ngành tiện ích, sẽ dẫn dắt thị trường, đi trước các ngành chu kỳ như các ngành thép, do đó ngành nhạy cảm với lãi suất sẽ đi trước, ngành cơ bản sẽ đi theo sau. Điều này được thể hiện trong hình dưới đây

    cac-chu-ky-dai-han-co-ban-ve-chu-ky-va-chu-ky-kondratieff-kakata-3.png

    Tương tự, các cổ phiếu nhạy cảm với lãi suất có thể tăng 80 phần trăm từ mức đáy lên đến đỉnh của chu kỳ của chúng, trong khi các cổ phiếu chu kỳ có thể chỉ tăng 20 phần trăm và ngược lại.

    cac-chu-ky-dai-han-co-ban-ve-chu-ky-va-chu-ky-kondratieff-kakata-4.png

    Hình trên đây cũng minh họa nguyên tắc này và cho thấy sự tương tác của chuỗi các thị trường tài chính trong một chu kỳ kinh doanh điển hình. Phần tăng thường bao gồm ba giai đoạn, tương ứng với ba giai đoạn được mô tả trong lý thuyết Dow. Việc giá đạt đến một đỉnh cao mới là điều bình thường khi mỗi giai đoạn mở ra, nhưng đôi khi điều này không xảy ra. Điều này được gọi là một thất bại về độ lớn, và là một tín hiệu yếu đi của thị trường (sign of weakness). Giá có thể thất bại trong khi tăng là kết quả của các chỉ số cơ bản yếu kém (tình hình kinh doanh không mấy ổn). Về hiệu quả, chu kỳ bỏ lỡ một nhịp.

    Điều ngược lại cũng có thể xảy ra; các yếu tố cơ bản đặc biệt mạnh mẽ (hoặc nhận thức của nhà đầu tư về chúng) có thể làm phát sinh giai đoạn thứ tư, trong đó giá cả trải qua một bước tăng thêm. Đối với thị trường chứng khoán, đợt tăng giá cuối cùng này thường liên quan đến thời gian giảm lãi suất kéo dài. Các điều kiện hiện tại mạnh mẽ như vậy thường xuất hiện khi chu kỳ 4 năm diễn ra kết hợp với đỉnh của chu kỳ dài hạn, chẳng hạn như liên kết với các xu hướng lớn hơn chu kỳ 4 năm.

    Trong trường hợp các điểm đảo chiều chu kỳ của các chu kỳ trùng nhau, thì bước tăng giảm của chu kỳ tiếp theo sẽ rất mạnh. Đó là nguyên tắc thứ ba - sự tổng hợp (summation).

    Sự kết hợp của các chu kỳ sẽ liên quan đến một công cụ chỉ báo tên là Know Sure Thing (KST). Đây là công cụ chỉ báo được Mr. Marting Pring giới thiệu trong các quyển sách của ông, rất hiệu quả để xác định chu kỳ. Tôi sẽ có bài viết về chỉ báo này nhanh thôi.

    Nếu kết quả được vẽ là một chu kỳ lý tưởng, nó sẽ được biểu thị bằng một đường cong tương tự như Special K indicator.

    Có bốn yếu tố ảnh hưởng đến xu hướng chuỗi thời gian tại bất kỳ thời điểm nào: thế tục (secular), theo chu kỳ (cyclical), theo mùa (seasonal) và ngẫu nhiên (random). Xu hướng định kỳ là điểm khởi đầu cho mục đích phân tích thị trường tăng và gỉam cơ bản. Cụ thể, đây là chu kỳ 4 năm, hoặc chu kỳ Kitchin. Chu kỳ thế tục là một ảnh hưởng rất dài hạn, bao gồm nhiều chu kỳ 4 năm. Từ quan điểm của một thị trường chứng khoán, trái phiếu hoặc hàng hóa, chu kỳ thế tục chiếm ưu thế nhất là chu kỳ dao động từ 30 đến 50 năm giữa các đáy. Hai chu kỳ quan trọng khác vượt quá 4 năm là chu kỳ 9,2 năm và 18 năm.

    cac-chu-ky-dai-han-co-ban-ve-chu-ky-va-chu-ky-kondratieff-kakata-6.png cac-chu-ky-dai-han-co-ban-ve-chu-ky-va-chu-ky-kondratieff-kakata-7.png

    Hai hình trên đây được điều chỉnh từ Chu kỳ kinh doanh của Joseph Schumpeter (McGraw-Hill, 1939), kết hợp hiệu ứng của ba chu kỳ kinh doanh có thể quan sát thành một đường cong. Trên thực tế, nó cho thấy nguyên tắc tổng hợp sử dụng ba chu kỳ dài hơn: chu kỳ 50 đến 54 năm (Kondratieff), chu kỳ 9,2 năm và chu kỳ 41 tháng (Kitchin). Mô hình này không nhằm mục đích dự đoán chính xác về điều kiện kinh doanh và giá cổ phiếu, mà là để chỉ ra sự tương tác của các chu kỳ ngắn hơn với các chu kỳ dài hơn. Mặc dù vậy, điều đáng chú ý là đường cong dài hạn vượt qua đường zero vào năm 1987, đây là một năm sóng gió cho thị trường chứng khoán. Mô hình này đã được xây dựng từ trước những năm 1920. So sánh mô hình này với đồ thị bên dưới đây đã cho thấy giai đoạn tăng từ năm 1942 đến 1966 hoàn toàn khớp với sự tăng lên của chu kỳ phía trên.

    cac-chu-ky-dai-han-co-ban-ve-chu-ky-va-chu-ky-kondratieff-kakata-8.png

    Bởi vì yếu tố cơ bản cho mô hình này là chu kỳ 54 năm - Kondratieff, nên đây sẽ là điểm bắt đầu tốt cho việc trình bày các chu kỳ dài hạn.

    CHU KỲ DÀI - CHU KỲ KONDRATIEFF

    Chu kỳ 54 năm được đặt theo tên của nhà kinh tế học người Nga phát minh ra nó - Kondratieff. Ông đã đã quan sát suốt từ năm 1926 và thấy rằng Hoa Kỳ đã trải qua 3 chu kỳ kinh tế, mỗi chu kỳ kéo dài 50 - 54 năm. Hay ở chỗ 3 chu kỳ này đã được thống kê lại bởi E.H Phelps Brown và Sheila Hopkins của trường London School of Economics. Họ đã để ý sự xuất hiện mỗi 50 - 52 năm lặp lại của nước Anh giữa giai đoạn 1271 đến 1954. Đỉnh của chu kỳ gần nhất được dự đoán là vào năm 1974 - 1978. Chúng ta xem chu kỳ lãi suất của Anh và Pháp, cũng khá tương đồng với chu kỳ 54 năm.

    cac-chu-ky-dai-han-co-ban-ve-chu-ky-va-chu-ky-kondratieff-kakata-9.png

    Kondratieff đã sử dụng giá bán buôn như tiêu điểm cho quan sát của ông:

    cac-chu-ky-dai-han-co-ban-ve-chu-ky-va-chu-ky-kondratieff-kakata-10.png

    Quan điểm của riêng tôi là chu kỳ này phản ánh cán cân giữa lạm phát và giảm phát dài hạn khi chúng ảnh hưởng lên thị trường. Ví dụ, có một áp lực giảm phát cực lớn xuất hiện vào năm 1980, và CPI đã tăng suốt giai đoạn đó. Điều bất thường này được giải thích bằng hoạt động chống lạm phát của Chính phủ quyết liệt trong vài năm trở lại. Nó đã có tác dụng làm cho giá cả xuống thấp.

    Kondratieff lưu ý rằng mỗi sóng có 3 phase (giai đoạn): tăng lên 20 năm, đi ngang 7 - 10 năm và giảm 20 năm. Ông thấy rằng mỗi sóng tăng đều làm cho giá tăng, đi ngang làm cho giá cũng đi ngang và dĩ nhiên 20 năm cuối sẽ làm cho sóng giảm. Và lưu ý cuối cùng là các cuộc chiến tranh đã có liên quan đến cả hai giai đoạn bắt đầu và kết thúc của mỗi sóng tăng.

    Tại điểm bắt đầu chu kỳ, điều kiện kinh doanh thực sự không tốt, rất suy sụp. Do sự dư thừa công suất nhà máy và máy móc, nên người ta không còn động lực để đầu tư thêm vào các dự án mở rộng sản xuất. Họ sẽ có xu hướng để dành tiền tiết kiệm hơn là đi đầu tư.

    cac-chu-ky-dai-han-co-ban-ve-chu-ky-va-chu-ky-kondratieff-kakata-10.png

    Cuộc chiến tranh thì ở dưới đáy con sóng xuống, người ta gọi là chiến tranh đáy (trough war). Đây là một chất xúc tác làm cho nền kinh tế di chuyển thêm một lần nữa. Theo sự quan sát số lượng lớn những trường hợp suy thoái kinh tế thì chiến tranh này không có liên quan gì đến lạm phát.

    Trong thời gian hình thành, mỗi con sóng tăng theo chu kỳ càng trở nên mạnh hơn, niềm tin trở lại, và hoạt động kinh doanh sẽ đạt full công suất một lần nữa. Bởi vì sự lạm phát giá cả là không có, lãi suất cũng rất thấp. Tín dụng, một nhiên liệu tốt cho sự phục hồi kinh tế, rất dồi dào và rẻ. Suốt giai đoạn này, doanh nghiệp sẽ thay thế máy móc cũ, đầu tư cái mới để cải thiện năng suất. Giai đoạn tăng này thường sẽ liên quan đến sự phát triển công nghệ kỹ thuật, như đào kênh những năm 1820s và 1830s, đường sắt vào thế kỷ 19, ô tô vào những năm 1920s, điện vào những năm 1960s... Trong giai đoạn tăng, sự méo mó về lạm phát đã dẫn đến tình trạng đầu tư quá tay để phát triển nhanh chóng. Sự phát triển này lại dẫn đến căng thẳng xã hội và làm cho nền kinh tế mất ổn định. Một tính chất thường thấy xung quanh giai đoạn này là một cuộc chiến tranh khác nổ ra, được gọi là chiến tranh đỉnh chu kỳ (peak war). Không như chiến tranh đáy chu kỳ (trough war) là chất xúc tác để phục hồi nền kinh tế, chiến tranh đỉnh chu kỳ lại đặt một áp lực không đáng có (sự mâu thuẫn giữa các tầng lớp xã hội) vào nền kinh tế đang gần như toàn dụng. Kết quả là, giá cả và lợi suất trái phiếu tăng đáng kể lên 20 - 25 năm và tạo những đỉnh mới. Điều này ứng với các đỉnh 1814, 1864, 1914 và cuối thập niên 1970s.

    Bức tranh dài hạn này thực sự quan trọn, bởi vì nó ảnh hưởng đến sự vận động mang tính chu kỳ của thị trường tài chính. Ví dụ, suốt giai đoạn tăng trưởng và ít suy thoái, sẽ hợp lý hơn nếu kỳ vọng có một cú rớt nhẹ nhàng và nhanh gọn trên thị trường chứng khoán để chúng ta có cơ hội nhảy vào. Giai đoạn đi ngang tương đối luôn luôn có liên quan đến một giai đoạn tăng giá mạnh mẽ sau đó như 1820, 1860, 1920 và 1982. Cuối cùng, nếu một thị trường giảm mạnh phát triển, thì đó có thể diễn ra suốt giai đoạn giảm giá.

    Nghiên cứu về chu kỳ Kondratieff là một ví dụ tốt để giải thích tại sao bất kỳ dự đoán thị trường nào dựa trên chỉ hai hoặc ba chu kỳ trước đó đều là vô căn cứ. Chu kỳ Kondratieff đã xảy ra được ba lần trên thị trường Hòa Kỳ, và mỗi lần đề khác nhau. Vì thế, nó chỉ nên được sử dụng để có một sự hiểu biết tốt hơn và xu hướng dài hạn của cán cân lạm phát - giảm phát hơn là cổ máy dự đoán thị trường lên xuống.

    (Còn tiếp)

    Bảo Khánh - fb.com/baokhanh34
    Xem thêm:

    >> Lớp học CMT - Chartered Market Technician
     

    Các file đính kèm:

  2. Đang tải...

    Bài viết tương tự Diễn đàn Date
    Chủ đề phân tích các giai đoạn thị trường - Phân kỳ - Sakata - Sentiment - Elliott Lớp học CMT - Chartered Market Technician 13/12/19
    Lớp học CMT - Các nguyên tắc trong Phân tích chu kỳ Lớp học CMT - Chartered Market Technician 5/12/19
    Lớp học CMT: Chu kỳ thị trường là gì và các mẫu hình giao dịch theo nó (Phần 1) Lớp học CMT - Chartered Market Technician 11/4/19
    Chủ đề phân tích các giai đoạn thị trường - Các mô hình giá Lớp học CMT - Chartered Market Technician 11/12/19
    Chủ đề phân tích các giai đoạn thị trường - Thanh khoản thị trường và Đường trung bình di động Lớp học CMT - Chartered Market Technician 10/12/19

Lượt bình luận : 0

Chia sẻ trang này